Tự do – tư tưởng chủ đạo của Tuyên ngôn độc lập năm 1945

25/08/2019 09:19

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền tự do bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân trong Tuyên ngôn độc lập vẫn còn nguyên giá trị.

Tự do - tư tưởng chủ đạo của Tuyên ngôn độc lập năm 1945
Tự do – tư tưởng chủ đạo của Tuyên ngôn độc lập năm 1945

Đã có rất nhiều bài viết luận bàn về Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dù mỗi bài viết có mỗi nhãn quan khác nhau nhưng hầu hết đều thống nhất ở một điểm chung: tự do là tư tưởng xuyên suốt trong bản  tuyên ngôn bất hủ khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng CHXHCN Việt Nam).

Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 trở nên bất hủ là bởi tư tưởng nhân bản về quyền tự do của con người, là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt. Đó là sự hòa quyện giữa khát khao cho mục tiêu quốc thái dân an với tư tưởng tiến bộ về quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân mà Người tiếp thu được qua hàng chục năm bôn ba tìm đường cứu nước ở châu Âu và bắc Mỹ.

Thời bấy giờ, châu Âu và Bắc Mỹ không chỉ là những trung tâm công nghiệp mở ra văn minh cho nhân loại mà trên hết đó là quê hương của những nhà hiền triết có tư tưởng khai phóng vĩ đại.

Bởi vậy Hồ Chí Minh đã trích dẫn đưa vào Tuyên ngôn độc lập năm 1945 tư tưởng tinh túy của bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Vẫn biết, Bác Hồ trích Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp để đưa vào Tuyên ngôn độc lập năm 1945 còn là để tố cáo chính sách thuộc địa của thực dân Pháp trái với những gì họ nêu ra trong tuyên ngôn của quốc gia mình.

Tuy nhiên, cốt lõi của vấn đề là Người muốn gửi tới toàn thể quốc dân dân đồng bào thông điệp thế nào là tự do, là quyền con người. Đây là quan điểm mang đậm tư tưởng triết học khai sáng ở châu Âu thế kỷ thứ XVIII.

Với đặc điểm nổi bật của đất nước và quốc tế thời bấy giờ, đó là sự xung đột gay gắt, quyết liệt của các quan điểm tư tưởng khác biệt, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc phải gắn liền với quyền con người, quyền tự do bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Qua đó cho thấy tầm nhìn mang tính lịch sử của Người.

Với giá trị nhân bản, tư tưởng khai phóng của Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đã được hiến định trung thành, đầy đủ vào Hiến pháp 1946.

Lời nói đầu của bản Hiến pháp khẳng định: “Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:

Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.

Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.

Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.”

Điều 1, Hiến pháp quy định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.”

Điều thứ 21 quy định: “Nhân dân có quyền phúc quyết Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia …” ;

Điểm c, Điều 70 quy định: “Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.”

Các điều của Hiến pháp năm 1946 đã quy định rất rõ ràng, cụ thể rằng vai trò lập hiến và các công việc hệ trọng nhất của một quốc gia đều do nhân dân quyết định.

Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đánh giá, Hiến pháp 1946 phản ánh đúng tinh thần pháp quyền: “những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ”.

Điều đó thể hiện ở 5 điểm:

1. Hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Nghị viện nhân dân không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết.

2. Các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thay vì được nhà nước ghi nhận và bảo đảm.

3. Quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế.

4. Quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ.

5. Vai trò độc lập xét xử của toà án được bảo đảm. Các cơ quan khác không có quyền can thiệp. [1]

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên Lễ đài Quảng trường, Ba Đình, Hà Nội, ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu/ Ditichhochiminhphuchutich.gov.vn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên Lễ đài Quảng trường, Ba Đình, Hà Nội, ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu/ Ditichhochiminhphuchutich.gov.vn

Quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền tự do bình đẳng của người dân và quyền lực của nhân dân trong xây dựng bộ máy nhà nước không dừng lại ở Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp mà luôn được thể hiện ở lời nói và hành động trong suốt quá trình Người đảm nhiệm cương vị Chủ tịch nước.

Để phát huy dân chủ, phát huy trí tuệ của nhân dân, chống tình trạng “độc quyền chân lý”, Người căn dặn: “Dân chủ là để làm sao cho dân được mở miệng ra.” [2] và “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”[3]

Người yêu cầu, không thể để trong bộ máy nhà nước những cán bộ “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ.”[4]

Với quan điểm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt hạnh phúc, tự do của nhân dân lên hàng đầu.

Trong “Thư gửi Ủy ban Nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, ngày 17/10/1945, Người viết: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. [5]

Quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền tự do bình đẳng của người dân và quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là nhân tố quyết định để Người tập hợp được đông đảo tất cả các giai tầng xã hội; nhân sĩ, trí thức trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài hăng hái, nhiệt tình tham gia vào bộ máy nhà nước đương thời và dốc sức vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Đó là Khâm sai Bắc Bộ phủ Phan Kế Toại của Chính phủ Trần Trọng Kim, trở thành Phó Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa;

Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn của triều Nguyễn, trở thành Trưởng ban Thường trực Quốc hội (Chủ tịch Quốc hội hiện nay) Khóa I (1946 1955);

Luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Thanh niên Chính phủ Trần Trọng Kim, trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Và nhiều quan chức thuộc triều đình Huế và chính phủ Trần Trọng Kim; nhiều nhân sĩ, trí thức của các đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau cũng đã tham gia chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Đó là các trí thức Nguyễn Hữu Thọ, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng, Đỗ Xuân Hợp… và hàng trăm trí thức khác sẵn sàng từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý đi theo cách mạng, tham gia kháng chiến, kiến quốc.

Với quan điểm tư tưởng vì con người; vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; với đạo đức cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư của một một bậc minh triết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ tập hợp mọi từng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh vĩ đại để giải phóng dân tộc, thực hiện mục tiêu quốc thái dân an.

Ngày nay, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền tự do bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân trong Tuyên ngôn độc lập vẫn còn nguyên giá trị. Tư tưởng đó vừa là nguyên lý vừa là tiền đề để tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng, văn minh; và bảo vệ vững chắc lãnh thổ, chủ quyền quốc gia.

Nguyễn Huy Viện

Đọc nhiều