Những cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường hợp tác với Hoa Kỳ

17/09/2020 08:13

Thực tế, làn sóng chuyển dịch đầu tư của Hoa Kỳ sang Việt Nam đã bắt đầu diễn ra do tác động của cuộc chiến tranh thương mại và càng trở nên rõ rệt hơn khi Trung Quốc đang chịu nhiều tác động của dịch bệnh COVID-19.

Từ “bước ngoặt” kinh tế và ngoại giao

Theo đánh giá của ông Terence Alford – Giám đốc Phòng Thị trường vốn và dịch vụ đầu tư Colliers International tại Việt Nam được đưa ra hôm 15-9, 2020 là năm đánh dấu nhiều cột mốc mang tính “bước ngoặt” của Việt Nam.

Sau những nỗ lực kiểm soát COVID-19 chủ động và bình tĩnh, Việt Nam trở thành điểm đến tin cậy và là quốc gia thu hút được nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài bao gồm Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), Australia, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore…

Những thành tựu ngoại giao của Việt Nam trong thời gian qua cũng đã giúp hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện rõ rệt. Tại thời điểm này, so với các nước khác trong ASEAN, Việt Nam được coi là một môi trường kinh doanh tiềm năng nhờ vào một nền chính trị ổn định, tăng trưởng kinh tế đầy hứa hẹn, và là môi trường sống lý tưởng cho người nước ngoài.

“Oxford Economics, một tổ chức kinh tế nổi tiếng thế giới, đã lưu ý trong một báo cáo gần đây rằng, Việt Nam dự kiến sẽ là quốc gia Đông Nam Á duy nhất đạt mức tăng trưởng GDP dương 2,3% vào năm 2020 và là điểm “sáng nhất trong khu vực ASEAN”, ông Terence Alford nhấn mạnh và cho biết thêm rằng, thực tế, làn sóng chuyển dịch đầu tư của Hoa Kỳ sang Việt Nam đã bắt đầu diễn ra do tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung và việc Trung Quốc đang chịu nhiều tác động của dịch bệnh COVID-19.

Thêm vào đó, năm 2020 cũng là năm đánh dấu kỷ niệm chặng đường 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ (1995-2020). Trong suốt thời gian qua, kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước ghi nhận sự tăng trưởng ổn định trong lĩnh vực mang tính trọng tâm kinh tế – thương mại – đầu tư.

Kim ngạch thương mại hàng hóa hai chiều đã tăng hơn 170 lần, từ 450 triệu USD năm 1995 lên 77,6 tỷ USD vào năm 2019. Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và Việt Nam là thị trường xuất khẩu có tốc độ tăng cao nhất của Hoa Kỳ trong các đối tác Đông Nam Á.

Hoa Kỳ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Điểm sáng để đón dòng vốn dịch chuyển

Nói thêm về việc này, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải nhận định: “Sự chuyển dịch mạnh mẽ của chuỗi cung ứng toàn cầu trong thời gian gần đây đã giúp Việt Nam trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 27 và là đối tác thương mại lớn thứ 16 của Hoa Kỳ. Từ đó, Việt Nam trở thành một trong những ứng cử viên sáng giá đón dòng vốn dịch chuyển này nhờ thành công trong ngăn chặn dịch bệnh”.

Thống kê cho thấy, các doanh nghiệp của Hoa Kỳ đã đầu tư hàng tỷ USD vào Việt Nam và con số này đang ngày một tăng thêm. Nhiều doanh nghiệp có kế hoạch đầu tư lâu dài hoặc chuyển hướng đầu tư từ các nước trong khu vực về Việt Nam. Cụ thể, hai đại gia công nghệ lớn của Hoa Kỳ là Google và Microsoft đang chuyển một số dây chuyền sản xuất sang Việt Nam.

Tập đoàn Ford cũng quyết định gia tăng năng lực sản xuất bằng việc đầu tư nhà máy lắp ráp tại Hải Dương. General Electric (GE) cũng đã tăng vốn đầu tư vào nhà máy tuabin gió ở Hải Phòng và đang có nhu cầu mở rộng. Chính phủ Việt Nam đã cấp phép cho tập đoàn năng lượng lớn của Hoa Kỳ là AES được triển khai dự án khí LNG ở Sơn Mỹ…

Trong một báo cáo phát hành hồi cuối tháng 5, Công ty Chứng khoán SSI cũng cho biết, nhiều công ty Hoa Kỳ đang tích cực tìm kiếm thị trường Việt Nam làm điểm đến cho chuỗi cung ứng mới và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang có dấu hiệu tích cực và khởi sắc khi tổng vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm bốn tháng đầu năm 2020 đạt 9,8 tỷ USD, tăng 32%.

“Dịch COVID-19 mở ra một bước ngoặt mới, khi làm đứt gãy chuỗi cung ứng và để tránh phụ thuộc vào Trung Quốc, với mục đích giảm thiểu rủi ro, đang có sự dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang các quốc gia khác sẽ diễn ra nhanh chóng hơn”, báo cáo của SSI chỉ rõ.

Tuy nhiên, ông Terence Alford vẫn cảnh báo: “Cơ hội này không chỉ dành riêng cho Việt Nam, một cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư đang diễn ra rất mạnh mẽ tại khu vực châu Á, đặc biệt là hai “ông lớn” đang muốn cạnh tranh thu hút FDI với Việt Nam là Ấn Độ và Indonesia và chắc chắn Việt Nam cần phải “linh hoạt chuyển mình” hơn để có thể trở thành sự lựa chọn của các nhà đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài”.

Tăng tốc trong cuộc đua thu hút FDI

Chuyên gia kinh tế cho đến nay đều có chung nhận định rằng, với những nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý, tạo mọi điều kiện đầu tư kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các nhà đầu tư, dù không tránh được ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhưng Việt Nam vẫn được đánh giá là “đất lành” thu hút vốn FDI chất lượng cao sau đại dịch.

Đặc biệt, những năm gần đây, Việt Nam đã phần nào trở thành điểm đến tiềm năng cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài nhờ vào tốc độ tăng trưởng GDP trung bình gần 7%/năm, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân ngày càng tăng cũng sẽ là thị trường tiêu thụ tiềm năng cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ tại lĩnh vực y tế, giáo dục, viễn thông, bán lẻ, tài chính-ngân hàng, năng lượng…

Vì thế, với tình hình hiện tại, Việt Nam cần phải có kế hoạch chiến lược mang tầm “quốc gia”, thống nhất và chỉ đạo từ Chính phủ trong công tác minh bạch các thủ tục đấu thầu, tinh gọn các thủ tục hành chính kinh doanh, hỗ trợ các thủ tục về pháp lý đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế mới, kinh tế sáng tạo, kinh tế số để có thể sẵn sàng chuyển hóa các cơ hội và ổn định, nhất quán mức lương cũng như chính sách tiền lương giữa các tỉnh, thành và khu vực.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần am hiểu hệ thống luật pháp, thị trường và tiêu chuẩn hàng hóa của Hoa Kỳ; nâng cao chất lượng hàng hóa, xây dựng thương hiệu với chiến lược giá cả cạnh tranh, tận dụng tốt hệ thống phân phối, triển khai hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại. Lãnh đạo doanh nghiệp cũng nên tập trung để cải cách và đầu tư và đào tạo nhân lực chất lượng cao để có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực.

S.Thương/CAND

Đọc nhiều