Năm 2035 hoàn thành hơn 1.500km đường sắt tốc độ cao trục Bắc – Nam
Sáng ngày 11/7, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chủ trì cuộc họp của Thường trực Chính phủ nhằm xem xét đề án đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, dự kiến sẽ được trình cấp có thẩm quyền xem xét và quyết định. Đây là một trong những dự án trọng điểm nhằm nâng cao hệ thống giao thông vận tải của Việt Nam, với mục tiêu hoàn thành 1.541 km đường sắt tốc độ cao đi qua 20 tỉnh, thành phố trong khoảng 10 năm, phấn đấu hoàn thành vào năm 2035.
Trong cuộc họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) với nhiều điểm mới và rõ ràng hơn so với các cuộc họp trước đây. Tuy nhiên, Thủ tướng yêu cầu Bộ GTVT tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và làm rõ hơn nữa các nội dung liên quan đến cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn, quan điểm, nguyên tắc, phương pháp luận, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp trong đề án.
Theo Thủ tướng, chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam có đầy đủ cơ sở chính trị (Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị), cơ sở pháp lý (Nghị quyết số 103 của Quốc hội) và cơ sở thực tiễn. Ông nhấn mạnh rằng quan điểm, nguyên tắc và phương pháp luận phải mang tính đột phá, đổi mới với tầm nhìn chiến lược, hiện đại và hiệu quả, theo đúng tinh thần Nghị quyết 49.
Mục tiêu chính của đề án là hoàn thành khoảng 1.541 km đường sắt tốc độ cao đi qua 20 tỉnh, thành phố trong khoảng 10 năm và phấn đấu hoàn thành vào năm 2035. Để đạt được mục tiêu này, Thủ tướng yêu cầu nghiên cứu hướng tuyến thuận lợi nhất, ngắn nhất và hiệu quả nhất có thể, lựa chọn tốc độ thiết kế khoảng 350 km/h. Đồng thời, cần xây dựng đường sắt tốc độ cao với công năng phù hợp để phát huy thế mạnh bổ sung của các loại hình vận tải hiện có trên trục Bắc – Nam, bao gồm 3 tuyến đường bộ (Quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh, đường bộ cao tốc đang được xây dựng), các tuyến đường biển, hàng không và đường sắt.
Đề án cũng yêu cầu nghiên cứu vận tải hành khách là chủ yếu, kết hợp vận tải hàng hóa nhanh và phục vụ quốc phòng-an ninh khi có nhu cầu, đồng thời tiếp tục cải tạo, nâng cấp đường sắt hiện hữu để vận chuyển hàng hóa. Tổng mức đầu tư cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, so sánh với đường sắt tốc độ cao của các nước có tốc độ và quy mô tương tự, đồng thời tính đến yếu tố địa hình, địa chất của Việt Nam. Thủ tướng cũng yêu cầu tính toán khả năng thu hồi vốn, đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội, hiệu quả tài chính, hiệu quả vận tải, logistics và hiệu quả tổng hợp, trực tiếp và gián tiếp.
Để đảm bảo nguồn vốn cho dự án, Thủ tướng yêu cầu nghiên cứu cơ chế, chính sách để huy động nguồn vốn theo các phương thức khác nhau, đa dạng hóa nguồn vốn (vốn trung ương, vốn địa phương, vốn vay, phát hành trái phiếu, vốn doanh nghiệp…). Phương án tổ chức quản lý dự án cần theo hướng thông minh, hiện đại, số hóa, bao gồm quản lý kinh doanh vận tải và quản lý kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ và hình thành hệ sinh thái để phát triển ngành công nghiệp đường sắt.
Theo đó, Thủ tướng yêu cầu Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tiếp tục trực tiếp chỉ đạo, Bộ GTVT bổ sung, làm rõ thêm và thuyết phục các nội dung trên, tiếp tục hoàn thiện đề án để báo cáo Chính phủ tại phiên họp sắp tới và trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Ưu tiên khởi công đường sắt tốc độ cao kết nối với Trung Quốc trước năm 2030 là một trong những mục tiêu cụ thể.
Để phát triển logistics toàn diện, việc đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam cần dựa trên cơ sở chính trị và pháp lý, cụ thể là Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam và Nghị quyết số 103 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2024. Trong đó, yêu cầu nghiên cứu, triển khai hiệu quả kết luận số 49 của Bộ Chính trị, đẩy nhanh tiến độ xây dựng một số tuyến đường sắt quan trọng quốc gia, tuyến đường sắt trục Đông – Tây, nghiên cứu hoàn thiện Đề án về dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam và phấn đấu phê duyệt chủ trương đầu tư dự án sớm nhất có thể trong năm 2024.
Ngoài ra, cơ sở thực tiễn cũng cho thấy nhu cầu vận tải rất lớn trong bối cảnh đất nước trải dài theo hướng Bắc – Nam và hạ tầng giao thông chưa phát triển. Chi phí logistics hiện nay còn cao, chiếm tỉ lệ khoảng 17-18% so với thế giới là khoảng 10-11%, điều này làm giá thành hàng hóa cao và sức cạnh tranh có hạn. Vì vậy, cần phát triển logistics toàn diện và lựa chọn các phương án tối ưu, trong đó có phương án đường sắt tốc độ cao.
Cuộc họp của Thường trực Chính phủ đã kết luận rằng, mục tiêu và yêu cầu đặt ra là cần hoàn thành chiều dài đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam khoảng 1.541 km đi qua 20 tỉnh, thành phố trong khoảng 10 năm và phấn đấu hoàn thành vào năm 2035. Để đạt được mục tiêu này, cần nghiên cứu hướng tuyến thuận lợi nhất, ngắn nhất và hiệu quả nhất, lựa chọn tốc độ thiết kế khoảng 350 km/h và xây dựng đường sắt tốc độ cao với công năng phù hợp để phát huy thế mạnh bổ sung của các loại hình vận tải hiện có. Tổng mức đầu tư cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, so sánh với đường sắt tốc độ cao của các nước có tốc độ và quy mô tương tự, tính đến yếu tố địa hình, địa chất của Việt Nam và tính toán khả năng thu hồi vốn, đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội, hiệu quả tài chính, hiệu quả vận tải, logistics và hiệu quả tổng hợp, trực tiếp và gián tiếp.
Đáng chú ý, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh rằng cần nghiên cứu cơ chế, chính sách để huy động nguồn vốn theo các phương thức khác nhau, đa dạng hóa nguồn vốn và tổ chức quản lý dự án theo hướng thông minh, hiện đại, số hóa, bao gồm quản lý kinh doanh vận tải và quản lý kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ và hình thành hệ sinh thái để phát triển ngành công nghiệp đường sắt. Cuối cùng, Thủ tướng yêu cầu Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tiếp tục trực tiếp chỉ đạo, Bộ GTVT bổ sung, làm rõ và thuyết phục các nội dung trên, tiếp tục hoàn thiện đề án cùng các tài liệu, dự thảo kèm theo trên cơ sở bám sát Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 103 của Quốc hội để báo cáo Chính phủ tại phiên họp sắp tới và trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Bích Ngân