Nới bội chi, nợ công – Phải tính toán hết sức thận trọng

12/11/2021 08:00

Chiều 11/11, sau khi kết thúc phần chất vấn đối với nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng là thành viên Chính phủ thứ tư trả lời chất vấn trong kỳ lần thứ hai, Quốc hội khóa XV.

[youtube]https://www.youtube.com/watch?v=ajdiQrnKg3s[/youtube]

Nới bội chi, nợ công – Phải tính toán hết sức thận trọng

Về tăng bội chi và nợ công cũng như khả năng hấp thụ của nền kinh tế, đảm bảo không phá vỡ an toàn tài chính chung cũng như hệ thống ngân hàng, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, đây là vấn đề đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư lưu ý trong quá trình xây dựng, được tính toán hết sức thận trọng.

Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cùng tính toán về dư địa còn lại, sử dụng các công cụ từ chính sách tài chính, tài khóa, tiền tệ để xem xét sử dụng cụ nào và khả năng còn bao nhiêu, huy động bằng cách nào.

Bộ trưởng nhấn mạnh rằng, đây là vấn đề hết sức quan trọng để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô cũng như cân đối lớn nên khi tính toán phải hết sức thận trọng để đảm bảo phục hồi, tận dụng các cơ hội đảm bảo được các mục tiêu trong dài hạn, cân nhắc đến cả vấn đề an toàn, ổn định kinh tế vĩ mô.

Về giải ngân vốn đầu tư công, theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, đây là vấn đề nan giải chưa giải quyết một cách triệt để. Nếu chúng ta giải ngân không tốt, kể cả gói hỗ trợ cho đầu tư công cũng rất khó hấp thụ.

“Mạnh dạn hơn” nhưng vẫn phải bảo đảm an toàn

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Bộ đã xây dựng hai kịch bản cho kinh tế, có hoặc không có chương trình phục hồi, từ đó xác định các tỷ lệ về mức nợ công, bội chi, lạm phát cho từng kịch bản.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang cùng Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước để tính toán sử dụng các công cụ chính sách tài khóa, tiền tệ thế nào cho phù hợp, dựa trên đánh giá khả năng hấp thụ kinh tế và thu xếp nguồn vốn.

Quan điểm trong xây dựng chính sách là “mạnh dạn hơn” để phục hồi và phát triển kinh tế, vừa duy trì tăng trưởng, tăng GDP, tăng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn nợ công, bội chi ngân sách.

Công cụ quan trọng nhất, theo Bộ trưởng, là theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, nợ xấu, điều hành linh hoạt cung tiền, đảm bảo nguồn cung nguyên vật liệu, đảm bảo hiệu quả mang tính dẫn dắt nguồn vốn ngoài Nhà nước cùng tham gia.

5 nhóm giải pháp thực hiện mục tiêu kép

Trả lời chất vấn của đại biểu về các giải pháp để phục hồi và phát triển kinh tế, thực hiện thành công mục tiêu kép trong thời gian tới, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Bộ đã xây dựng 5 nhóm giải pháp như sau:

Thứ nhất, tập trung mở cửa nền kinh tế gắn với phòng, chống dịch và thực hiện Nghị quyết 128 một cách thắt chặt an toàn, có lộ trình phù hợp với chiến lược phòng, chống dịch và khả năng tiêm vaccine, thuốc điều trị, trang thiết bị y tế. Tăng tính chủ động cho doanh nghiệp để duy trì hoạt động liên tục.

Thứ hai, tập trung hỗ trợ an sinh xã hội và tạo việc làm, theo đó hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, người lao động, đào tạo, đào tạo lại lao động, kết nối việc làm, phát triển thị trường lao động, chính sách dạy nghề, nhà ở xã hội…

Thứ ba, là hỗ trợ phục hồi cho doanh nghiệp. Vừa qua, doanh nghiệp bị ảnh hưởng tổn thương rất nhiều và khả năng chống chịu đã bị bào mòn rất nhiều, đặc biệt và một số lĩnh vực bị tác động mạnh mẽ.

Về các chính sách chung, Bộ sẽ xem xét để trình Quốc hội, các cơ quan có thẩm quyền để cho phép kéo dài các chính sách về miễn, giảm, gia hạn các loại thuế, phí, lệ phí.

Bên cạnh đó, hỗ trợ cấp bù lãi suất cho các doanh nghiệp vay trong một số lĩnh vực ưu tiên, có một số các chính sách riêng đối với ngành và lĩnh vực chế biến nông, lâm sản, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số…

Thứ tư, là phát triển kết cấu hạ tầng, khuyến khích PPP để thực hiện các hạ tầng này; đầu tư công tập trung cho hạ tầng chiến lược và những công trình trọng điểm quốc gia mang tính động lực lớn lan tỏa, kết nối để phát triển bền vững trong thời gian tới, công trình an ninh nguồn nước, an toàn hồ, đập, ứng phó với biến đổi…

Thứ năm, là tiếp tục cải cách thể chế, thủ tục hành chính, môi trường đầu tư và đi kèm với đó phải có chính sách về quản trị rủi ro gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế

Luật hóa, tạo điều kiện để hộ kinh doanh “lớn lên” thành doanh nghiệp

Trả lời chất vấn về giải pháp đột phá để đạt được mục tiêu đến năm 2025 có 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết mục tiêu đạt 1 triệu doanh nghiệp tại nhiệm kỳ trước, trên thực tế là không đạt được.

Bộ trưởng cho rằng, để thực hiện được mục tiêu có 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2025 cần những giải pháp căn cơ.

Trước hết cần tổ chức thực hiện hiệu quả Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bộ Kế hoạch và Đầu tư căn cứ vào các chính sách đã được quy định trong luật để triển khai các giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập mới và có thể hoạt động được. Theo Bộ trưởng, phải tạo được niềm tin để các doanh nhân, doanh nghiệp thành lập doanh nghiệp, tham gia đầu tư.

Bên cạnh đó, những chương trình đang triển khai như chương trình hỗ trợ chuyển đổi số, hỗ trợ chuyển đổi cho doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp như Nghị định 57 hoặc đầu tư trong các ngành, lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao… cũng sẽ góp phần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới.

Theo Bộ trưởng, một trong những điều kiện để thực hiện mục tiêu này là tập trung phát triển hộ kinh doanh. Hiện Việt Nam có 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, với 8 triệu lao động, tuy nhiên hiện vẫn chưa có một môi trường pháp lý phù hợp.

Trong nhiệm kỳ trước, Chính phủ có đề xuất bổ sung vào Luật Doanh nghiệp, tuy nhiên Quốc hội đề nghị tách thành luật riêng. Theo đó, thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ báo cáo Chính phủ, xây dựng một luật riêng cho hộ kinh doanh cá thể, trình cấp có thẩm quyền thông qua để phát huy tiềm năng, lợi thế của các hộ kinh doanh, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh “lớn lên” thành doanh nghiệp.

Thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ

Về đề xuất xây dựng luật liên quan đến công nghiêp hỗ trợ, Bộ trưởng khẳng định: Quan điểm của tôi rất ủng hộ.

Bộ trưởng lý giải: Muốn phát triển công nghiệp hỗ trợ, muốn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phải có nền công nghiệp thực thụ. Và muốn có nền công nghiệp thực thụ phải phát triển công nghiệp phụ trợ, phải có một bộ luật riêng quy định các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Theo Bộ trưởng, “chúng ta chỉ gia công, lắp ráp thôi thì giá trị gia tăng rất thấp. Chúng tôi cũng đồng tình với quan điểm là phải có luật riêng và phải thúc đẩy khu vực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chính là để thúc đẩy cả khu vực kinh tế trong nước, là để xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ”.

Gói hỗ trợ phải có quy mô đủ lớn, thời gian phù hợp

Về kinh nghiệm triển khai các gói hỗ trợ của các nước trên thế giới, Bộ trưởng cho biết, các nước thường đưa ra các gói hỗ trợ rất lớn, quyết định rất nhanh, chấp nhận tăng nợ công… qua đó khôi phục kinh tế rất nhanh.

Về tài khóa các nước đều tăng cho y tế, hỗ trợ các hộ gia đình khó khăn, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, cấp phát tiền mặt, miễn giảm thuế phí đối với những lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh; đầu tư cho hạ tầng…. Về tín dụng, nhìn chung các nước hỗ trợ lãi suất, nới lỏng quy định cho vay…

Đối với Việt Nam, gói hỗ trợ phải có quy mô đủ lớn, thời gian phù hợp, bảo đảm kinh tế vĩ mô, kết hợp linh hoạt chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ; gắn kết chặt chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, chính sách tái cơ cấu nền kinh tế; tính toán đến cả những tác động trong ngắn hạn, dài hạn; hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm khả thi, hiệu quả… để nền kinh tế phục hồi, phát triển nhanh theo tinh thần thích ứng an toàn, linh hoạt, phòng chống dịch hiệu quả, bảo đảm thực hiện mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn 2020-2025 đã đề ra.

Về triển khai tuyến cao tốc nối Phú Thọ – Tuyên Quang – Hà Giang, Bộ trưởng cho biết, theo quy hoạch tuyến này sẽ được triển khai sau năm 2025. Tuy nhiên, nếu được triển khai sớm hơn, kết hợp với các tuyến cao tốc khác, sẽ hình thành mạng lưới đường cao tốc, kết nối các tỉnh miền núi phía Bắc với thủ đô Hà Nội, đồng bằng Bắc Bộ,… Theo Bộ trưởng, điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc mở ra không gian phát triển mới ở khu vực miền núi phía Bắc. Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn toàn ủng hộ chủ trương này và sẽ đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Rà soát, tháo gỡ vướng mắc cho các dự án ODA

Về giải pháp triển khai hiệu quả các dự án ODA, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, đối với một số dự án ODA, ngoài việc phải thực hiện các thủ tục theo quy trình, thủ tục và pháp luật trong nước còn phải làm thêm các quy trình, thủ tục của nhà tài trợ.

Như vậy, phải làm đồng thời hai việc, mà mỗi việc lại mất rất nhiều thời gian, nhất là thời gian trong giãn cách vừa qua thì chỉ một thay đổi nhỏ như thay đổi tên, địa giới, phạm vi diện tích… cũng rất khó thực hiện.

Tiếp đó là vấn đề về lao động và chuyên gia lao động. Lao động ở các dự án này phải có giấy phép, chuyên gia thì phải có xác nhận tư cách chuyên gia. Những “động tác” này đều phải làm các thủ tục xong mới làm được. Thế nên các dự án ODA hiện nay đang giải ngân rất chậm.

Thêm vào đó, các nguyên nhân như khâu nhập khẩu máy móc gặp khó khăn hay chuyên gia lao động bị cách ly, không được di chuyển giữa địa phương này đến địa phương kia… càng khiến tốc độ giải ngân các dự án có vốn ODA thấp. Ngoài ra, có một số dự án ODA do triển khai, lựa chọn và tổ chức thực hiện chưa tốt dẫn đến lãng phí.

Thời gian tới, Bộ sẽ cùng với các ngành, địa phương rà soát lại những dự án nào có vướng mắc có thể tháo gỡ nhằm thúc đẩy tiến độ, đảm bảo hiệu quả.

Những dự án nào không thực sự hiệu quả, không còn phù hợp sẽ bàn với nhà tài trợ để “đóng” các dự án này, không để kéo dài và lãng phí.

Sẽ xây dựng luật riêng về hộ kinh doanh

Đại biểu Vũ Tiến Lộc (Hà Nội) cho biết ngày mai Quốc hội sẽ thông qua Đề án tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó giữ nguyên đề xuất so với dự thảo là có 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2025. Tuy nhiên, mục tiêu này sẽ không thể đạt được nếu không có giải pháp đột phá về khuôn khổ pháp lý cho doanh nghiệp. Ông Lộc đặt câu hỏi Bộ KHĐT đã chuẩn bị giải pháp đột phát gì để đạt được mục tiêu này.

Bên cạnh đó, vị đại biểu Quốc hội cũng cho biết Việt Nam hiện vẫn là nền kinh tế gia công, không chỉ trong lĩnh vực công nghiệp mà cả nông nghiệp vì ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển. Vì vậy, Bộ KHĐT đã có giải pháp gì liên quan lĩnh vực này và có cân nhắc trình Quốc hội dự thảo Luật công nghiệp hỗ trợ hay không.

Ngoài ra, ông Lộc cũng yêu cầu Bộ KHĐT trả lời về kế hoạch xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển hộ kinh doanh trong nước, lĩnh vực liên quan sinh kế của hàng chục triệu hộ gia đình.

Trả lời về những vấn đề này, Bộ trưởng KHĐT cho biết trong nhiệm kỳ trước, Quốc hội cũng đã đặt mục tiêu đạt 1 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2020. Tuy nhiên, thực tế đã không đạt được.

Ông Dũng cho biết mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả theo dự thảo được đưa ra dựa trên tính toán của Bộ KHĐT với dữ liệu tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ thành lập doanh nghiệp, môi trường phát triển kinh doanh… Và mục tiêu này có thể đạt được, nhưng cũng cần phải có giải pháp căn cơ và đột phá.

Hiện Chính phủ đang triển khai Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, tập trung để hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập mới. Đồng thời, các chính sách mới cũng góp phần tạo niềm tin để các doanh nhân, doanh nghiệp bỏ tiền ra đầu tư, thành lập doanh nghiệp mới, đổ vào hoạt động sản xuất.

Bên cạnh đó, Bộ KHĐT, Chính phủ đã và đang có nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp về chuyển đổi số, hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp công nghệ cao…

“Tất cả chính sách này có thể thúc đẩy doanh nghiệp phát triển trong thời gian tới”, Bộ trưởng Dũng nhấn mạnh.

Liên quan giải pháp hỗ trợ phát triển hộ kinh doanh, Bộ trưởng KHĐT cho biết trong thời gian tới Bộ sẽ đề xuất luật hóa các quy định liên quan hoạt động của nhóm đối tượng này. Hiện tại dù có gần 5 triệu hộ với trên 8 triệu lao động nhưng vẫn chưa có quy định được luật hóa để quản lý, hỗ trợ các đối tượng này.

Bộ trưởng Dũng cũng cho biết tại nhiệm kỳ trước, Chính phủ đã đề xuất đưa các quy định này vào Luật Doanh nghiệp nhưng Quốc hội đề nghị tách thành luật riêng. Vì vậy, Bộ KHĐT sẽ báo cáo lại với Chính phủ trong thời gian tới để xây dựng luật riêng cho các hộ kinh doanh để có điều kiện phát triển.

“Khi các hộ kinh doanh có thể lớn mạnh trở thành doanh nghiệp thì mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2025 cũng có thể đạt được”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Về luật riêng cho ngành công nghiệp hỗ trợ, Bộ trưởng KHĐT cho rằng đây là vấn đề thuộc Bộ Công Thương, nhưng quan điểm của Bộ KHĐT vẫn rất ủng hộ.

Ông Dũng cho biết muốn phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phải có một nền công nghiệp thực thụ, và muốn có nền công nghiệp thực thụ cần phải phát triển công nghiệp hỗ trợ. Vì vậy, để phát triển được lĩnh vực này cần có một bộ luật riêng.

Khi có bộ luật riêng cho ngành công nghiệp hỗ trợ cũng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong ngành, đồng thời thúc đẩy cả khu vực kinh tế trong nước. Đây là một trong những yếu tố giúp xây dựng nền kinh tế tự chủ cao hơn.

“Không nới bội chi và nợ công, rất khó có điều kiện tăng trưởng”

Trả lời chất vấn của đại biểu Nguyễn Văn Hiển (Lâm Đồng) về gói hỗ trợ bằng tiền mặt khoảng 3-4% GDP, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng lo ngại nếu hỗ trợ bằng tiền mặt, cấp tiền cho người dân thì rủi ro, nguy cơ lớn là tăng lạm phát.

Ông cũng thể hiện quan điểm ủng hộ nới bội chi và nợ công trong một khoảng có thể kiểm soát được vì nếu không nới thì rất khó có điều kiện để tăng trưởng, mà không tăng trưởng thì không thể thực hiện các mục tiêu đề ra.

“Nếu như thế, chúng ta sẽ bỏ hết các cơ hội từ Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ thời kỳ dân số vàng hay từ các hiệp định thương mại tự do, chúng ta sẽ lỡ nhịp cuộc chơi và tụt hậu”, ông Dũng nêu quan điểm.

Ông đề nghị nghiên cứu nới bội chi và nợ công để làm quy mô làm kinh tế lớn lên, khi đó tự khắc bội chi và nợ công sẽ giảm xuống, có thể cao hơn số cũ một chút nhưng có thể chấp nhận được. Bộ trưởng KHĐT nhắc lại nếu không nới nợ công và bội chi sẽ không thể phát triển, và khi đó chúng ta sẽ lại rơi vào vòng luẩn quẩn khi nợ công, bội chi vẫn ở mức cao.

Tập đoàn Nike đã phục hồi 100% đơn hàng ở Việt Nam

Đại biểu Mai Thị Phương Hoa (đoàn Nam Định) dẫn báo cáo của Chính phủ cho biết dưới tác động của dịch Covid-19 trong 10 tháng đầu năm có 97.000 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Mặc dù con số này thấp hơn số doanh nghiệp mới thành lập mới và quay trở lại hoạt động nhưng là một thực trạng rất đáng lưu ý. Từ đây, bà Hoa đặt câu hỏi về số doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thế tăng cao và giải pháp xử lý.

Nhìn nhận từ thực tiễn, Bộ trưởng nhận định thời gian qua doanh nghiệp rất khó khăn. Đề ra giải pháp, ông nhắc đến 2 giai đoạn. Trong đó năm 2021 duy trì sản xuất bằng cách giữ chân lao động, hỗ trợ doanh nghiệp cầm cự. Sang năm 2022, cố gắng mở cửa nhanh nền kinh tế kết hợp với phòng chống dịch tốt và có một chương trình phục hồi sắp tới.

Bộ trưởng cũng thông tin sau khi có Nghị quyết 128, tình hình phục hồi của doanh nghiệp diễn ra nhanh. Hiện nay hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhà máy, xí nghiệp đã quay trở lại, có nơi lên tới 80-90%. Dự kiến đến cuối năm nay sẽ phục hồi 100% ở một số địa phương.

“Trước đây có 40-60% doanh nghiệp là thua lỗ thì nay tỷ lệ doanh nghiệp quay trở lại rất lớn”, ông Dũng nói thêm.

Về Nghị quyết 105 của Chính phủ để hỗ trợ cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Nhiều cử tri bày tỏ mong muốn khi dịch bệnh được kiểm soát, cùng với những chủ trương, chính sách của Nhà nước thì khu vực doanh nghiệp sẽ được phục hồi nhanh chóng. Bà Hoa đặt câu hỏi về đánh giá của Bộ trưởng và những giải pháp để kỳ vọng này trở thành hiện thực.

Về Nghị quyết 105, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết chính sách này được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá rất cao. Trong đó có 4 điểm được ông nhấn mạnh đó là chúng ta hỗ trợ về y tế, lưu thông hàng hóa, dòng tiền và lao động. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể yên tâm quay trở lại hoạt động, tránh việc bị chuyển đơn hàng.

Ông dẫn chứng về Tập đoàn Nike khoảng 200 doanh nghiệp với khoảng 500.000 lao động, khi dịch bệnh căng thẳng họ đã chuyển khoảng 30% đơn hàng ra các nước khác. Họ không chuyển hẳn ra bên ngoài mà chuyển trong hệ thống ở nước khác.

“Nhưng sau khi có Nghị quyết 128, và Nghị quyết 105 họ đã mang đơn hàng trở lại 100%. Vừa qua gặp Thủ tướng tại COP26, họ đã cảm ơn Chính phủ và cam kết ở lại Việt Nam lâu dài”, ông Dũng nói.

Lưu ý thêm, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết theo số liệu từ TP.HCM, các doanh nghiệp quay trở lại ở trong các khu công nghiệp, khu chế xuất có tỷ lệ rất cao, nhưng các doanh nghiệp ở ngoài và doanh nghiệp thương mại dịch vụ lại có tỷ lệ hoạt động rất thấp. Từ đó, ông Huệ lưu ý khi tính toàn cần chỉ rõ các doanh nghiệp hoạt động là ở trong phạm vi nào.

“Nếu không đánh giá sát và đúng tình hình thì khó lòng có được chiến lược và chính sách tổng thể để phục hồi và phát triển kinh tế xã hội”, Chủ tịch Quốc hội nói.

Có hay không hiện tượng “đầu tư núp bóng”?

Đại biểu Vũ Trọng Kim đặt câu hỏi có hay không thông tin 162.000 ha đất do người Trung Quốc sở hữu quyền sử dụng trên cả nước, trong đó có 63.000 ha đất biên giới, ven biển.

Ông đặt câu hỏi có hay không hiện tượng người nước ngoài núp bóng người Việt Nam để mua và chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ông đề nghị Bộ trưởng làm rõ việc này và các giải pháp.

Nói về “đầu tư núp bóng”, ông Nguyễn Chí Dũng cho rằng đây là vấn đề lớn và Bộ cũng chưa nắm rõ tình hình thực tế ở các địa phương.

Ông cho biết Bộ sẽ tham mưu Chính phủ có biện pháp quản lý đất đai mà các nhà đầu tư nước ngoài núp bóng dưới danh nghĩa cá nhân ở Việt Nam để thâu tóm, đặc biệt là vùng ven biển và sát biên giới.

“Đổ cho địa phương thì tội nghiệp địa phương quá”

Tiếp tục chuỗi tranh luận về vấn đề giải ngân vốn đầu tư công, đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng những dự án nhóm A và trọng điểm quốc gia do bộ, ngành Trung ương thẩm định. Do đó, nếu Bộ trưởng nói chậm giải ngân do địa phương thì “tội nghiệp địa phương quá”. Ông đề nghị làm rõ địa phương nào chậm thì xử lý trách nhiệm, nhưng bộ ngành Trung ương thẩm định chậm cũng phải làm rõ trách nhiệm.

Giải đáp tranh luận của đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định quyền thẩm định các dự án nhóm A là của địa phương, còn với các dự án quan trọng quốc gia thì Bộ KHĐT thẩm định trước khi trình Thủ tướng.

“Cái nào chậm trên Bộ KHĐT hay Trung ương hãy cho chúng tôi biết, tôi đảm bảo Bộ luôn nỗ lực không để chậm một ngày, một giờ nào hết. Còn quy trình, thủ tục nhiều bước, lấy ý kiến nhiều cơ quan nên có thể khi tổng hợp lại bị chậm, chúng tôi xin rút kinh nghiệm và sẽ cố gắng”, ông Dũng nói.

Khi nào nâng cấp đường từ Tây Nguyên tới Đông Nam Bộ

Đại biểu Đặng Thị Kiều (Đắk Nông) cho biết trong báo cáo của Bộ KHĐT gửi đại biểu Quốc hội tại kỳ họp chưa có giải pháp cụ thể để triển khai đầu tư, nâng cấp các tuyến giao thông nối các tỉnh Tây Nguyên với khu vực Đông Nam Bộ. Từ đó, bà đặt câu hỏi về giải pháp của Bộ KHĐT để thực hiện nội dung này.

Đáp lời, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng bày tỏ chia sẻ với ý kiến của đại biểu đồng thời nhấn mạnh khu vực Tây Nguyên nếu không được kết nối với khu vực Đông Nam Bộ hoặc Duyên hải miền Trung thì rất khó có cơ hội phát triển.

Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng, nâng cấp còn phục thuộc quy hoạch vào mạng lưới giao thông mới được trình Chính phủ phê duyệt. Ông cho biết Bộ trưởng GTVT sẽ có ý kiến thêm về việc này.

5 nhóm giải pháp phục hồi kinh tế

Đại biểu Nguyễn Minh Tâm (Quảng Bình) chất vấn về giải pháp và chủ trương cụ thể để đẩy mạnh phục hồi phát triển kinh tế thời gian tới.

Bộ trưởng Dũng cho biết sẽ tập trung vào 5 nhóm giải pháp chính.

Thứ nhất là tập trung mở cửa nền kinh tế gắn với phòng, chống dịch theo Nghị quyết 128 của Chính phủ. Việc mở cửa sẽ chắc chắn, an toàn, có lộ trình và phù hợp với chiến lược chống dịch và khả năng tiêm vaccine cũng như nguồn cung thuốc điều trị, trang thiết bị y tế; tăng tính chủ động cho doanh nghiệp.

Thứ hai là hỗ trợ an sinh xã hội và tạo việc làm cho người lao động; hỗ trợ các diện chính sách, người lao động, đào tạo, kết nối việc làm, phát triển thị trường lao động; phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân…

Thứ ba là hỗ trợ phục hồi cho doanh nghiệp, gồm có hỗ trợ sức chống chịu đặc biệt ở một số lĩnh vực bị tác động mạnh mẽ. Bộ đang xem xét, trình Quốc hội, cơ quan có thẩm quyền cho phép kéo dài, gia hạn, miễn giảm các loại thuế, phí cho doanh nghiệp; cấp bù lãi suất cho một số doanh nghiệp lĩnh vực ưu tiên vay.

Thứ tư là phát triển kết cấu hạ tầng, khuyến khích PPP; đẩy mạnh đầu tư công tập trung cho hạ tầng chiến lược, trọng điểm quốc gia, mang động lực lớn; đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ, đập.

Thứ năm là tiếp tục cải cách thể chế, thủ tục hành chính, môi trường đầu tư kinh doanh; có chính sách quản trị rủi ro, gắn với ổn định kinh tế vĩ mô.

Tiến độ giải ngân 2 tỷ USD cho Đồng bằng sông Cửu Long đến đâu

Dẫn quy định tại Chỉ thị 23 của Thủ tướng về việc yêu cầu phê duyệt quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long trong quý IV, đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Long An) cho biết đến nay đã một năm trôi qua mà quy hoạch này vẫn chưa được phê duyệt, ông đặt câu hỏi chất vấn về nguyên nhân của sự chậm trễ này và thời gian phê duyệt quy hoạch này.

Theo báo cáo 243 của Chính phủ về đầu tư công, Chính phủ dự kiến bổ sung 2 tỷ USD cho các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long để thực hiện chương trình mục tiêu chống biến đổi khí hậu. Ông Tuấn Anh đặt câu hỏi về tình hình triển khai chương trình và tiến độ giải ngân.

Trả lời, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những nội dung quan trọng nhất để thích ứng với biến đổi khí hậu cùng với việc huy động nguồn lực và cơ chế điều phối liên vùng. Đây là những nội dung được đưa vào Nghị quyết 120.

Về quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long, ông Dũng cho biết Bộ KHĐT đã chủ trì, phối hợp cùng các tư vấn quốc tế làm bài bản và đã làm xong từ cuối năm 2020. Hiện đang trình Chính phủ và sẽ tổ chức thẩm định, xem xét trong thời gian tới.

“Phó thủ tướng Lê Văn Thành đã chỉ đạo các cơ quan liên quan hoàn thiện thêm một bước nữa để sớm phê duyệt trong thời gian tới”, ông Dũng thông tin thêm.

Về nội dung bổ sung thêm bổ sung 2 tỷ USD, Bộ trưởng cho biết Chính phủ khóa trước đã cam kết ủng hộ cho vùng một khoảng tăng thêm để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, thích ứng biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, việc này liên quan đến rất nhiều vấn đề như các nhà tài trợ, các bộ ngành. Hiện đã thống nhất với các nhà tài trợ.

Tuy nhiên, cơ quan chức năng cần xem xét thể chế tiếp cận nguồn vốn theo dự án hay theo chương trình mục tiêu đồng thời cần xem xét quy trình thủ tục thực hiện theo quy định trong nước hay ODA. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết đã thống nhất với Bộ Tài chính về sửa đổi Nghị định 56, từ đó báo cáo Chính phủ để phê duyệt để có cơ sở thực hiện các dự án.

Dự án giao cơ quan nào thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm

Về vấn đề tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công chậm, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai (Hà Nội) cho biết ngoài nguyên nhân do dịch bệnh, còn có trách nhiệm lớn của các bên trong việc chuyển nguồn giải ngân vốn đầu tư công thời gian qua.

Khi đi giám sát tại địa phương, đoàn Đại biểu Quốc hội được phản ánh trách nhiệm này thuộc về trung ương, nhưng khi làm việc với Bộ chủ quản, trách nhiệm lại được phản ánh thuộc về địa phương. Đại biểu Mai đề nghị Bộ trưởng KHĐT làm rõ vấn đề này.

Về vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh dự án giao cho cơ quan nào thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm. Trường hợp dự án của địa phương thì địa phương phải là bên chịu trách nhiệm, tương tự với dự án của trung ương thì trách nhiệm cũng thuộc về trung ương.

Bên cạnh đó, với các dự án của trung ương triển khai tại địa phương, nếu cấu phần nào đã bàn giao cho địa phương thì địa phương đó phải chịu trách nhiệm.

Lấy ví dụ về công tác giải phóng mặt bằng, Bộ trưởng Dũng cho biết hiện nay các dự án của trung ương tại địa phương đều gặp khó khăn liên quan giải phóng mặt bằng.

Vì vậy, trong đề án tách khoản bồi thường và hỗ trợ tái định cư ra khỏi dự án đầu công sắp tới trình Quốc hội, Bộ KHĐT đang trình riêng phần giải phóng mặt bằng với quy định giao lại cho địa phương xử lý hoàn toàn. Bên cạnh đó, để thuận lợi cho địa phương, Bộ KHĐT cũng có đề xuất cho phép địa phương dùng cả ngân sách Trung ương cấp qua bộ, ngành và ngân sách địa phương để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng.

“Nếu tách được và giao hẳn cho địa phương thì sẽ tách bạch được trách nhiệm 2 bên trong cùng một dự án. Khi đó, tiến độ dự án cũng sẽ được cải thiện”, Bộ trưởng KHĐT nhấn mạnh.

Giải ngân vốn đầu tư công chậm không thể đổ lỗi cho pháp luật

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chia sẻ vấn đề hiện nay không phải ở luật pháp, mà vấn đề của đầu tư công luật quy định rõ ràng, đầy đủ, phân cấp triệt để cho địa phương, Bộ chỉ quản lý tổng hợp chung thông qua hệ thống công nghệ thông tin.

“Như vậy đã rất thông thoáng, thuận lợi cho các địa phương”, ông Dũng nói. Vì thế ông khẳng định tất cả nằm ở vấn đề tổ chức thực hiện, vì cùng một thể chế có nơi giải ngân được 100%, thậm chí phải ứng thêm vốn, trong khi có nơi rất thấp.

Ông dự báo cuối năm nay giải ngân không thể cao bằng năm 2020, khả năng chỉ đạt 80-85%. Ông đề nghị các địa phương nghiêm khắc nhìn nhận vấn đề, không đổ cho pháp luật.

“Tiền có chưa tiêu hết thì tiêu mới cái gì?”

Từ vị trí điều hành, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cũng chia sẻ quan điểm về việc giải ngân vốn đầu tư công. Ông nhắc lại năm 2020, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt kỷ lục 98%. “Thể chế của năm 2021 phải tiến bộ hơn năm 2020 chứ. Vì sao trong cùng một thể chế lại có nơi giải ngân cao, nơi giải ngân thấp?”, Chủ tịch Quốc hội đặt câu hỏi.

Ông đề nghị làm rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan, cốt lõi là gì, vì đến hết 10 tháng rồi chưa giải ngân được 50%. Theo Chủ tịch Quốc hội, doanh nghiệp, người dân đều mong muốn có gói kích thích mới, nhưng “toàn bộ số tiền chúng ta có chưa tiêu hết đây thì tiêu mới cái gì?”.

Từ đó, ông đặt câu hỏi về năng lực hấp thu vốn khi 16.000 tỷ của 3 chương trình mục tiêu quốc gia chưa phân bổ được đồng nào; 56.000 tỷ của các địa phương cũng chưa phân bổ được đồng nào?

“Nếu chúng ta không làm rõ được chuyện này, Quốc hội có chất vấn xong thì vẫn như vậy thôi, trách nhiệm nằm ở đâu phải nói cho rõ. Tình hình kiểm tra, giám sát và từng nguyên nhân vướng mắc chúng ta sẽ giải quyết thế nào chứ không thể nói chung chung được”, ông yêu cầu.

Nêu bối cảnh năm 2020 cũng có dịch Covid-19 và đất nước phải lo rất nhiều công việc lớn nhưng chúng ta vẫn giải ngân được tỷ lệ lớn, Chủ tịch Quốc hội đề nghị nói rõ câu chuyện này.

“Không thể để tình trạng này kéo dài mãi, vì nền kinh tế đang rất thiếu vốn. Nhiều đại biểu muốn nới bội chi, tăng trần nợ công rồi có gói nọ, gói kia, nhưng toàn bộ số tiền chúng ta có còn chưa tiêu được”, Chủ tịch Quốc hội nhắc lại.

Tư duy nhiệm kỳ làm chậm giải ngân vốn đầu tư công?

Đại biểu Tạ Văn Hạ (Quảng Nam) sử dụng quyền tranh luận để trao đổi lại với phần trả lời của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng về nội dung giải ngân vốn đầu tư công. Ông Hạ cho biết khi thảo luận về tình hình kinh tế – xã hội, đầu tư công là vấn đề được nhìn nhận còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế.

“Không chỉ vấn đề giải ngân mà bất cập từ xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến khi kết thúc dự án. Có ý kiến nói mắc do luật, có người nói phần nhiều do tổ chức thực hiện và tôi cũng đồng ý quan điểm do tổ chức thực hiện”, ông Hạ nói.

Theo vị đại biểu, nguyên nhân một phần do khi xây dựng kế hoạch không sát, không xuất phát từ nhu cầu thực tế của địa phương mà do doanh nghiệp lập kế hoạch. Đặc biệt, có tình trạng điều chỉnh theo tư duy nhiệm kỳ, nhiệm kỳ xây dựng kế hoạch thì thấy cần thiết, bức xúc nhưng nhiệm kỳ sau lại xin điều chỉnh.

“Luật đã quy định rõ, vậy chuyện tồn tại nhiều năm thì Bộ KHĐT với trách nhiệm gác cửa, tham mưu về lĩnh vực này thì có giải pháp chấn chỉnh, khắc phục ngay. Nếu cứ để vướng mắc tồn tại dài sẽ ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của nền kinh tế”, ông Hạ nói và đề nghị Bộ trưởng làm rõ giải pháp và trách nhiệm.

Lý do giải ngân vốn đầu tư công còn chậm

Theo báo cáo gửi Chính phủ, tính đến ngày 31/10, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công, vốn ODA đạt tỷ lệ rất thấp so với kế hoạch. Đại biểu Âu Thị Mai (Tuyên Quang) đề nghị Bộ trưởng KHĐT cho biết nguyên nhân vì sao tỷ lệ giải ngân vốn còn thấp và giải pháp của Bộ KHĐT để đẩy nhanh tiến độ giải ngân trong năm nay và các năm tiếp theo.

Bộ trưởng KHĐT cho biết vấn đề giải ngân vốn đầu tư công được rất nhiều cử chi, đại biểu Quốc hội quan tâm và đã được nhắc tới ở rất nhiều kỳ họp. Nhưng các vấn đề đến nay vẫn chưa được giải quyết triệt để, tỷ lệ giải ngân vẫn thấp. Trong năm nay, tỷ lệ giải ngân thấp có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Theo Bộ trưởng KHĐT, lý do chính khiến tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công không đạt tiến độ là phương pháp chuẩn bị phương án kém, chất lượng không cao, chủ yếu việc chuẩn bị phương án đầu tư chỉ mang tính hình thức, qua loa. Sau khi được chấp thuận chủ chương đầu tư thì các chủ đầu tư mới thực hiện một cách thực tế, lúc này lại mất rất nhiều thời gian để điều chỉnh lại dự án.

Bên cạnh đó, vướng mắc liên quan công tác giải phóng mặt bằng vẫn gây khó khăn và chưa thể giải quyết ngay. Theo Bộ trưởng Dũng, nếu các quy định, vướng mắc trong Luật đất đai không được giải quyết triệt để thì công tác giải phóng mặt bằng sẽ không thể giải quyết nhanh. Các phát sinh chủ yếu là giá đền bù đất, tranh chấp khi bàn giao, khiếu kiện, ý thức người dân…

Riêng năm 2021, Bộ trưởng KHĐT cho biết công tác giải ngân vốn đầu tư công còn gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 khiến nhiều địa phương phải giãn cách xã hội nhiều tháng. Bên cạnh đó, dịch bệnh khiến giá nhiên vật liệu tăng cao, thiếu lao động, chi phí đối ứng tăng cao…

Ngoài ra, đây cũng là năm đầu thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn và trùng với nhiều sự kiện lớn. Theo Bộ trưởng KHĐT, để khắc phục tình trạng này thì tổ chức thực hiện vẫn là khâu chính, bởi hiện nay Bộ KHĐT đã phân cấp phần lớn quyền quyết định về lựa chọn dự án giải ngân, tỷ lệ giải ngân, thẩm định nguồn vốn, khả năng cân đối vốn… về các bộ, ngành và địa phương.

Không để kéo dài dự án ODA gây lãng phí

Trả lời chất vấn của đại biểu Trần Quang Minh (Quảng Bình) về một số dự án ODA gây lãng phí, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết các dự án này ngoài thực hiện theo quy trình, thủ tục trong nước còn phải theo quy trình thủ tục của nhà tài trợ.

“Việc thực hiện đồng thời các quy trình này mất rất nhiều thời gian, nhất là năm vừa qua phải giãn cách xã hội, bởi có những thay đổi rất nhỏ vẫn phải cần có thỏa thuận của nước ngoài”, Bộ trưởng KHĐT lý giải.

Ngoài ra, ông giải thích lao động, việc chuyên gia phải có giấy phép lao động và giấy xác nhận tư cách chuyên gia cũng là một trong những nguyên nhân khiến dự án ODA giải ngân chậm. Bên cạnh đó còn vướng mắc trong nhập khẩu máy móc, chuyên gia lao động vào vướng cách ly, không thể di chuyển giữa địa phương này với địa phương khác.

Đặc biệt, người đứng đầu Bộ KHĐT cũng thừa nhận một số dự án do chúng ta triển khai, lựa chọn, tổ chức thực hiện không tốt nên dẫn đến lãng phí.

“Thời gian tới, chúng tôi sẽ rà soát lại, dự án nào có thể tháo gỡ được sẽ phối hợp với các địa phương giải quyết ách tắc, vướng mắc, còn nếu không hiệu quả thì sẽ bàn với nhà tài trợ đóng các dự án này lại, không để kéo dài, lãng phí”, ông Dũng nhấn mạnh.

Khi nào đầu tư cao tốc tới Hà Giang, đi qua Tuyên Quang – Phú Thọ?

Đại biểu Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) đặt câu hỏi cho Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng về tuyến cao tốc kết nối từ Hà Giang với cao tốc Tuyên Quang – Phú Thọ hiện đã được Chính phủ quy hoạch vào mạng lưới giao thông đường bộ 2021-2030, bà Thúy đánh giá đây là điều kiện quan trọng để Hà Giang cùng các địa phương trong khu vực phát triển. Nữ đại biểu đặt câu hỏi về thời gian đầu tư của tuyến đường này. “Liệu có được đầu tư trong giai đoạn 2021-2025 hay không?”, bà Thúy nói.

Trả lời, Bộ trưởng cho biết theo quy hoạch sẽ thực hiện trong giai đoạn 2025-2030. Tuy nhiên, ông Dũng ủng hộ thực hiện trong thời gian sớm hơn nếu có điều kiện. Bộ trưởng lý giải khi có tuyến đường này sẽ rất có hiệu quả bởi sẽ kết nối các trục dọc, hướng tâm từ Hà Nội thông ra cửa khẩu Thanh Thủy. Từ đó, mở ra không gian phát triển mới cho các tỉnh miền núi phía Bắc và kết nối với thị trường Trung Quốc.

Ông cho biết sẽ trình Chính phủ xem xét để đầu tư sớm hơn tuyến đường này.

Trình chương trình phục hồi kinh tế vào kỳ họp Quốc hội cuối năm

Về quan điểm của chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, Bộ trưởng cho biết chương trình này phải có quy mô đủ lớn, thời gian thực hiện phù hợp, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. Đồng thời, ông nhấn mạnh phải đảm bảo hỗ trợ cho cả cung và cầu của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, cần thực hiện linh hoạt giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm, kế hoạch đầu tư công, kế hoạch tài chính công 5 năm, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế…

Đồng thời, Bộ trưởng cho biết chương trình cần tập trung tập trung vào những chính sách tác động ngay, kịp thời hỗ trợ đồng thời phải tính đến vấn đề dài hạn như xuất khẩu, tiêu dùng nội địa…

Chính sách và giải pháp phải gắn với cơ chế thực hiện để đảm bảo khả thi, hiệu quả, hỗ trợ phải có trọng tâm, trọng điểm, gắn với khả năng vay – trả của nền kinh tế.

Một điều kiện nữa là phải phục hồi phát triển nhanh trên cơ sở thích ứng an toàn, linh hoạt kiểm soát có hiệu quả dịch bệnh theo tinh thần Nghị quyết 128.

“Đảm bảo chủ động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, đảm bảo tăng trưởng 2021-2025 là 6,5-7%, chúng ta phải kiên định mục tiêu này”, ông Dũng nói và cho biết dự kiến Chính phủ sẽ trình Quốc hội về chương trình phục hồi kinh tế vào kỳ họp cuối năm. Chương trình dự kiến kéo dài trong 2 năm (2022-2023).

Ông cũng cho biết các chính sách hỗ trợ sẽ tập trung cho người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã, ngành lĩnh vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch, những ngành có tiềm năng phục hồi nhanh, đóng góp lớn cho nền kinh tế. Bộ trưởng nhấn mạnh vào tính trọng tâm, trọng điểm.

Dự báo tăng GDP 6-6,5% năm 2022 dựa theo kịch bản kiểm soát dịch

Đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn (Hải Dương) nêu trong các chỉ tiêu kinh tế xã hội năm 2022 mà Chính phủ trình Quốc hội, chỉ tiêu tốc độ tăng GDP đạt 6-6,5%, tốc độ tăng CPI bình quân 4%, tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP khoảng 4%.

Ông đề nghị Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết khi xây dựng những chỉ tiêu này, đã dự báo hết nguy cơ gia tăng tỷ lệ lạm phát chưa, nhất là hậu quả nặng nề do dịch Covid-19 gây ra. Đồng thời, trong tỷ lệ bội chi nêu trên, đã bao gồm các gói phục hồi kinh tế mà Chính phủ trình Quốc hội trong thời gian tới chưa.

Trả lời, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khẳng định cơ sở để xác định các mục tiêu trên đều dựa trên tình hình thực tiễn, có tính đến khả năng chúng ta kiểm soát được dịch bệnh vào quý IV và khả năng phục hồi của nền kinh tế khi chúng ta mở cửa trở lại.

Đối với ý thứ hai của đại biểu Sơn, Bộ trưởng cho biết chưa tính các gói phục hồi kinh tế vào tỷ lệ bội chi đề ra. “Nếu được Quốc hội thông qua, chúng tôi tính toán điều này làm tăng thêm bội chi khoảng 1% và chúng ta có thể kiểm soát được”, ông Dũng nói.

Theo Bộ trưởng, khi kinh tế phát triển và quy mô của nền kinh tế tăng lên sẽ giải quyết được rất nhiều mục tiêu: Giải quyết được việc làm, tận dụng các cơ hội, các chỉ số về nợ công và bội chi cũng sẽ giảm đi.

Một số nước tung gói hỗ trợ bất chấp kỷ luật tài chính

Trả lời chất vấn của đại biểu Âu Thị Mai (Tuyên Quang) về các gói hỗ trợ phục hồi kinh tế, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng dẫn cách làm của một số nước trên thế giới.

Đối với các quốc gia, ông Dũng cho biết họ có những quyết sách rất nhanh với 2 đặc điểm chính. Thứ nhất, các nước có những gói hỗ trợ quy mô rất lớn, chưa có tiền lệ và bất chấp những kỷ luật về tài chính. Thứ hai, các nước chấp nhận tăng trần nợ công, nợ Chính phủ và bội chi ngân sách.

Tư lệnh ngành KHĐT cho biết các nước thống nhất và quyết định rất nhanh, thực hiện ngay. Do đó, ngay sau khi phủ vaccine, cùng với các gói hỗ trợ, các nước này đã phục hồi rất nhanh về kinh tế.

Ông Dũng dẫn thông tin từ IMF cho thấy tăng trưởng GDP của Mỹ tăng tới 27,9% trong khi chấp nhân tăng nợ công thêm 21%, đây tỷ lệ nợ công của nước này lên 133% GDP. Trong khi đó, Trung Quốc có mức tăng trưởng 6,1% GDP đồng thời tăng nợ công thêm 9,7%, đẩy tỷ lệ nợ công tương ứng 66,8% GDP…

Về chính sách tài khóa, các quốc gia đều tăng cho chi tiêu y tế, phòng chống dịch. Hoạt động trợ giúp xã hội, hỗ trợ các hộ gia đình thu nhập thấp với nhiều phương thức như: Cấp phát bằng tiền mặt, hỗ trợ lương thực, tiền điện; chi trả những chính sách an sinh xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, miễn giảm thuế, phí cho doanh nghiệp trong một số lĩnh vực bị ảnh hưởng. Đồng thời, một số nước cũng hỗ trợ dòng tiền cho một số ngành ưu tiên.

Đồng thời, các quốc gia cũng tăng mạnh đầu tư cho hạ tầng. Bộ trưởng lấy ví dụ ở Mỹ đã chi 1.200 tỷ USD đầu tư cho hạ tầng, kích thích tăng trưởng cho dài hạn.

Về chính sách tiền tệ, họ duy trì lãi suất cơ bản ở mức thấp và tăng tín dụng, nới lỏng điều kiện hỗ trợ lãi suất, giữ nguyên nhóm nợ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, ưu đãi miễn giảm thuế và hạn chế chi trả cổ tức bằng tiền…

Tham mưu ban hành những chính sách chưa từng có tiền lệ

Phát biểu trước khi đăng đàn, Bộ trưởng KHĐT Nguyễn Chí Dũng chia sẻ ngay từ đầu nhiệm kỳ, Bộ đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư công trung hạn, cơ cấu lại nền kế… Đây là những quyết sách quan trọng và là căn cứ để các cấp, ngành địa phương thực hiện trong thời gian tới.

Ông Dũng cho biết trước tác động của dịch Covid-19, ngay từ đầu năm 2020, Bộ đã chia sẻ, lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp, chuyên gia, các tổ chức quốc tế để tham mưu ban hành các chính sách chưa từng có tiền lệ, nhằm kịp thời hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, giảm chi phí duy trì sản xuất và góp phần ổn định đời sống người dân khi dịch được kiểm soát.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhận định các chính sách đã ban hành nhằm kịp thời hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh… hạn chế tác động đứt gãy của chuỗi cung ứng sau thời gian dài bị ảnh hưởng bởi dịch, sớm khắc phục khó khăn, thách thức để thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn 5 năm 2021-2025.

Đặc biệt, ông thông tin Bộ KHĐT đang nghiên cứu tham mưu Chính phủ xây dựng chương trình phục hồi phát triển kinh tế, xã hội để trình Quốc hội trong kỳ họp tới. “Đây là một vấn đề lớn, phức tạp, quan trọng của đất nước, tác động toàn bộ tới nền kinh tế”, ông Dũng nhấn mạnh.

Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2022 khoảng 6-6,5%

Chính phủ dự báo năm 2022 tình hình quốc tế, trong nước có những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Dịch Covid-19 có thể xuất hiện phức tạp, nguy hiểm hơn.

Do vậy, tăng trưởng kinh tế thế giới không đồng đều, chưa vững chắc và thấp hơn năm 2021; rủi ro tiếp tục gia tăng.

Trong nước, kinh nghiệm, năng lực, khả năng ứng phó dịch bệnh tiếp tục được nâng lên, nhưng sức chống chịu và nguồn lực của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân giảm sút.

Nguy cơ chậm phục hồi kinh tế, suy giảm tăng trưởng vẫn còn tiềm ẩn nếu không kiểm soát được dịch bệnh một cách cơ bản để mở cửa trở lại nền kinh tế; rủi ro lạm phát gia tăng; thiên tai, biến đổi khí hậu là nguy cơ luôn tiềm ẩn.

Do đó, Chính phủ trình Quốc hội 16 chỉ tiêu chủ yếu về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường. Trong đó, mục tiêu đạt tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 6-6,5%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; bội chi ngân sách so với GDP khoảng 4%.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trả lời chất vấn về giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế trong bối cảnh tình hình mới.

Các vấn đề được đưa ra chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng gồm: Giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế trong bối cảnh tình hình mới;

Các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh để phục hồi, phát triển sản xuất, kinh doanh;

Công tác chuẩn bị đầu tư, việc phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn 2021-2025 và kế hoạch năm 2021;

Giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện giải ngân vốn đầu tư công và các dự án trọng điểm quốc gia;

Tiến độ thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi đầu tư phát triển.

Các Phó Thủ tướng Chính phủ: Lê Minh Khái, Lê Văn Thành; Bộ trưởng các Bộ: Tài chính, Giao thông Vận tải, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cùng tham gia trả lời chất vấn, giải trình về những vấn đề có liên quan đến nhóm vấn đề này.

Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ

Theo Bộ trưởng, trước thực tế này, thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các hợp tác xã, doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Gần đây nhất, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 09/9/2021 về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19.

Các chính sách, giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp được quy định tại Nghị quyết số 105/NQ-CP, theo Bộ trưởng, đã được cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước đánh giá cao và kỳ vọng sẽ giúp tháo gỡ những vấn đề khó khăn mà doanh nghiệp đang phải đối mặt.

Hiện nay, các giải pháp, nhiệm vụ đã và đang được các bộ, ngành và địa phương tích cực triển khai thực hiện và cơ bản hoàn thành theo đúng tiến độ được giao.

“Sinh khí mới” từ Nghị quyết 128/NQ-CP

Đặc biệt, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Nghị quyết 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ sau khi ban hành đã được dư luận xã hội đánh giá là một chủ trương, quyết sách đúng đắn, sáng tạo và kịp thời của Chính phủ, được người dân và cộng đồng doanh nghiệp mong chờ và ủng hộ.

“Thực tế, trong 10 ngày sau khi Nghị quyết 128/NQ-CP được ban hành (11/10/2021 – 20/10/2021), số doanh nghiệp thành lập mới là 3.753 doanh nghiệp, chiếm đến 45,6% tổng số doanh nghiệp thành lập mới trong tháng; số vốn đăng ký mới là 42.280 tỷ đồng, chiếm 38,9% tổng số vốn đăng ký mới trong tháng”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết.

Không chỉ vậy, tình hình doanh nghiệp thành lập mới tại những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh trong tháng 10/2021 cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ so với tháng 9/2021.

Chẳng hạn, Đồng Nai tăng 325,6%; Cần Thơ tăng 289,5%; Bình Dương tăng 260,3%; TPHCM tăng 204,7%; Hà Nội tăng 110,1%.

Tháng 10/2021 cũng ghi nhận 45/63 địa phương có số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng so với tháng 9/2021. Trong đó, đáng chú ý các địa phương chịu nhiều ảnh hưởng của dịch bệnh đều có sự phục hồi ấn tượng như: Đà Nẵng tăng 167,3%, Cần Thơ tăng 58,3%, TPHCM tăng 31,6%, Hà Nội tăng 17,8%, Bình Dương tăng 17%, Đồng Nai tăng 3,8%.

Ngoài ra, theo Bộ trưởng, Chính phủ cũng đang triển khai nhiều chính sách, giải pháp khác nhằm cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp như giảm tiền ký quỹ kinh doanh dịch vụ lữ hành, giảm thời gian hoàn trả tiền ký quỹ du lịch, giảm giá dịch vụ hạ, cất cánh đối với chuyến bay nội địa…

Các tổ công tác đặc biệt cũng đã được thành lập. Hàng tuần, nhóm giúp việc của Tổ công tác đặc biệt về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19 họp thảo luận, xem xét giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp…

Nỗ lực của Chính phủ được cộng đồng doanh nghiệp ghi nhận

“Có thể thấy, những nỗ lực vừa qua của Chính phủ đã được cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân ghi nhận và giảm bớt phần nào những khó khăn mà doanh nghiệp đang phải gánh chịu, giúp doanh nghiệp có thể duy trì, ổn định hoạt động sản xuất – kinh doanh và việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng củng cố niềm tin của đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân trong bối cảnh dịch bệnh khó khăn hiện nay”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.

Ở một góc độ khác, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, mặc dù Chính phủ đã rất cố gắng, nỗ lực huy động mọi nguồn lực hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn của dịch bệnh nhưng quy mô các chính sách hỗ trợ còn tương đối thấp, chủ yếu tác động về phía cung, chưa thực sự hỗ trợ mạnh mẽ cho người dân, doanh nghiệp; chưa có giải pháp tổng thể cùng với nguồn lực để thúc đẩy phục hồi đồng bộ cả về phía cung và phía cầu của nền kinh tế.

Và do vậy, theo Bộ trưởng, cần sớm ban hành và triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch bệnh COVID-19 để tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển, bắt kịp xu thế phục hồi và phát triển của thế giới.

Bên cạnh đó, hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đang tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành một số giải pháp để hỗ trợ, pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong thời gian.

Tùng Lâm